CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM

20 tháng 12/2023

Người khuyết tật là những người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể hoặc bị suy giảm, hạn chế một vài chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp rất nhiều khó khăn. Họ cũng là nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội, rất cần sự quan tâm, giúp đỡ từ cộng đồng, xã hội.

Theo kết quả điều tra quốc gia về người khuyết tật của Tổng cục Thống kê, Việt Nam hiện có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật, chiếm 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên. Đây là một con số không hề nhỏ, chiếm tỷ lệ khá cao so với tỉ lệ dân số của cả nước. Người khuyết tật không chỉ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thiệt thòi trong cuộc sống, mà còn bị giới hạn về quyền lợi, cơ hội tham gia bình đẳng vào các lĩnh vực trong đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị. Điều này không những ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của họ, mà còn làm lãng phí nguồn nhân lực dồi dào, đầy tiềm năng của đất nước. Việc đảm bảo quyền lợi và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người khuyết tật là một trong những nhiệm vụ quan trọng, ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, chương trình nhằm hỗ trợ người khuyết tật, như: Chương trình xóa đói giảm nghèo, Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021-2030,...

Media/1_TH1058/Images/anh-minh-hoa-3.jpg

Tuy nhiên, để người khuyết tật thực sự hòa nhập vào đời sống xã hội, cần có sự chung tay của cả cộng đồng, xã hội. Chúng ta cần thay đổi nhận thức, xóa bỏ rào cản, định kiến, kì thị đối với người khuyết tật; tạo điều kiện thuận lợi để họ được học tập, lao động, tham gia đầy đủ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội,…

Bài viết dưới đây sẽ phân tích những khó khăn mà người khuyết tật đang gặp phải, đồng thời đề xuất những giải pháp giúp đỡ họ hòa nhập vào xã hội, góp phần xây dựng một xã hội bình đẳng, công bằng cho tất cả mọi người.

Những khó khăn của NKT ở Việt Nam

Theo Điều tra Quốc gia về NKT năm 2016, NKT ở Việt Nam đang gặp những khó khăn chung sau đây:

•           Khó khăn về tài chính: NKT có thu nhập thấp hơn so với người không khuyết tật, chỉ chiếm 37,8% thu nhập bình quân đầu người. NKT cũng có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao hơn, chiếm 23,9% so với 9,2% trên tổng dân số trong cả nước. NKT cũng ít có cơ hội tham gia vào các hoạt động kinh tế, chỉ có 31,7% NKT từ 15 tuổi trở lên có việc làm, trong khi tỷ lệ này ở người không khuyết tật là 83,8%. Ngoài ra, NKT còn phải chịu nhiều chi phí liên quan đến dạng tật như chi phí y tế, dụng cụ hỗ trợ, vận chuyển và giáo dục.

  • Khó khăn về giáo dục: NKT có trình độ học vấn thấp hơn so với người không khuyết tật, chỉ có 24,6% NKT từ 15 tuổi trở lên hoàn thành cấp trung học phổ thông, trong khi tỷ lệ này ở người không khuyết tật là 39,8%. NKT cũng ít có cơ hội tiếp cận với hệ thống giáo dụcchất lượng cao, chỉ có 15,4% NKT từ 5 đến 18 tuổi tham gia vào hệ thống giáo dục chính quy, trong khi tỷ lệ này ở người không khuyết tật là 97,1%. NKT cũng gặp nhiều khó khăn trong việc thích nghi với môi trường học tập như khó tiếp cận với các cơ sở vật chất, giáo trình, khó hòa nhập với giáo viên và bạn bè khi tham gia học tập tại trường, lớp.

•           Khó khăn về y tế: NKT có tình trạng sức khỏe kém hơn so với người không khuyết tật, chỉ có 22,1% NKT từ 5 tuổi trở lên NHẬN thấy sức khỏe của mình là tốt hoặc rất tốt, trong khi tỷ lệ này ở người không khuyết tật là 50,2%. NKT cũng ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ y tế chất lượng, chỉ có 44,9% NKT từ 2 tuổi trở lên đã từng được khám, chữa bệnh hoặc tư vấn về dạng tật, trong khi tỷ lệ này ở người không khuyết tật là 58,3%. NKT cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các cơ sở y tế, thuốc men, dụng cụ hỗ trợ và nhân viên y tế.

•           Khó khăn về việc tiếp cận văn hóa và thông tin: NKT có ít cơ hội tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao và giải trí, chỉ có 18,4% NKT từ 5 tuổi trở lên thường xuyên tham gia vào các hoạt động này, trong khi tỷ lệ này ở người không khuyết tật là 34,4%. NKT cũng ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn thông tin đa dạng, chỉ có 32,9% NKT từ 15 tuổi trở lên thường xuyên sử dụng internet, trong khi tỷ lệ này ở người không khuyết tật là 59,9%. NKT cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các phương tiện truyền thông, sách báo, phim ảnh và các định dạng thông tin khác.

Những giải pháp cho NKT ở Việt Nam

Để cải thiện chất lượng cuộc sống của NKT ở Việt Nam, cần có sự đồng lòng và trung tay phối hợp củanhiều phía, bao gồm chính phủ, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cơ quan truyền thông, cộng đồng và chính bản thân NKT. Dưới đây là một số giải pháp đề xuất:

•           Thúc đẩy việc thực thi các quy định pháp luật về quyền NKT, như Luật NKT năm 2010, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật NKT, Quyết định số 1190/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đề án chương trình trợ giúp NKT giai đoạn 2021-2030 và các văn bản khác. Cần tăng cường giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm và đánh giá hiệu quả của các chính sách và dự án liên quan đến NKT.

•           Tăng cường đẩy mạnh nâng cao nhận thức và thay đổi góc nhìn của cộng đồng, xã hội đối với NKT, bằng cách tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, truyền thông và các hành động thiết thực cụ thể để trợ giúp NKT dễ dàng tham gia vào đời sống xã hội một cách bình đẳng. Cần khuyến khích sự tham gia và đóng góp của NKT trong các hoạt động xã hội, kinh tế, văn hóa và chính trị, tôn trọng quyền và nghĩa vụ, nhu cầu của NKT, bảo vệ và hỗ trợ NKT trước các hành vi kỳ thị, bạo lực và xâm hại.

•           Tạo điều kiện thuận lợi cho NKT tiếp cận các dịch vụ xã hội, bằng cách cải thiện cơ sở hạ tầng, công nghệ, nguồn nhân lực và tài chính. Cần đầu tư và phát triển các dịch vụ giáo dục chuyên biệt, y tế, việc làm, văn hóa và thông tin dành cho NKT, đảm bảo chất lượng, dễ tiếp cận, phù hợp và bình đẳng. Cần áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về tiếp cận thông tin, thiết kế phổ cập và hỗ trợ kỹ thuật cho NKT. Cần tăng cường đào tạo và nâng cao năng lực cho các nhân viên xã hội, giáo viên, y tế, bác sĩ, nhà báo và các ngành nghề liên quan đến NKT. Cần huy động và phân bổ hợp lý các nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước, hỗ trợ quốc tế, đóng góp của doanh nghiệp và cộng đồng cho các hoạt động hỗ trợ NKT.

  • Thúc đẩy sự tham gia và lãnh đạo của NKT trong quá trình đưa ra quyết định, bằng cách tăng cường vai trò của các tổ chức NKT, đặc biệt là các tổ chức do chính NKT thành lập và điều hành. Cần tạo điều kiện cho các tổ chức NKT tham gia vào việc xây dựng, thực thi, giám sát và đánh giá các chính sách, dự án liên quan đến NKT. Cần tôn trọng quyền lợi và trách nhiệm của NKT trong việc đảm bảo, thúc đẩy quyền của mình. Cần khuyến khích sự hợp tác, phối hợp giữa các tổ chức NKT với nhau và với các tổ chức xã hội khác.

•           Tăng cường hợp tác khu vực, quốc tế về NKT, bằng cách tham gia, thực hiện các cam kết, nghĩa vụ quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006. Cần tận dụng các cơ hội hợp tác, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm với các nước, tổ chức quốc tế trong lĩnh vực NKT. Cần tham gia, đóng góp vào các sáng kiến, diễn đàn khu vực về NKT, như Hội nghị cấp cao ASEAN về NKT, Diễn đàn NKT châu Á-Thái Bình Dương và các mạng lưới NKT khu vực khác trên toàncầu.

Người khuyết tật không chỉ là những công dân có đầy đủ quyền và nghĩa vụ với đất nước, mà còn là những người có tiềm năng và khả năng góp phần vào sự phát triển của xã hội. Để họ có thể thực hiện được những quyền lợi và nghĩa vụ của mình, cần có sự quan tâm, hỗ trợ và tạo điều kiện từ nhiều phía. Nhà nước, xã hội và chính người khuyết tật cần phải cùng nhau nỗ lực, để vượt qua những khó khăn và trở ngại, cần tôn trọng, đảm bảo quyền bình đẳng, hòa nhập và phát triển cho họ. Đó là cách để người khuyết tật có thể sống một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc và có ý nghĩa, đóng góp vào việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

 

Người viết bài: Cường Nguyễn – Hội Người Khiếm thị

Đối tác liên kết giáo dục với các trường quốc tế trên thế giới